Giảm tiền sử dụng đất bổ sung: Từ 5,4% xuống còn 3,6% từ 06/11/2025
Tin vui cho người sử dụng đất! Từ ngày 06/11/2025, mức thu tiền sử dụng đất phải nộp bổ sung sẽ giảm đáng kể từ 5,4% xuống còn 3,6%/năm. Quy định này mở ra cơ hội giảm gánh nặng tài chính, đặc biệt cho các trường hợp đã có quyết định giao đất nhưng chưa hoàn tất thủ tục định giá.
Hiểu rõ quy định mới về giảm tiền sử dụng đất bổ sung
Luật Đất đai 2024 và các nghị định hướng dẫn đã mang đến những thay đổi quan trọng, trong đó có việc điều chỉnh mức thu tiền sử dụng đất bổ sung. Đây là một điểm mấu chốt mà người sử dụng đất cần nắm rõ để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
Điều khoản chuyển tiếp về tiền sử dụng đất
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 50 của Nghị định 103/2024/NĐ-CP, các trường hợp đã có quyết định giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất hoặc điều chỉnh quy hoạch chi tiết theo pháp luật trước ngày Luật Đất đai 2024 có hiệu lực nhưng chưa có quyết định giá đất sẽ áp dụng quy định tại Khoản 2, Điều 257 của Luật Đất đai.
Cụ thể, khoản tiền người sử dụng đất phải nộp bổ sung cho thời gian chưa tính tiền sử dụng đất trước đây sẽ được tính với mức thu 5,4%/năm. Mức này áp dụng trên số tiền sử dụng đất phải nộp, được xác định theo quy định tại Khoản 2, Điều 257 của Luật Đất đai.
Sửa đổi và hiệu lực thi hành của quy định
Tuy nhiên, sự điều chỉnh quan trọng đến từ Điểm b, Khoản 18, Điều 1 của Nghị định 291/2025/NĐ-CP. Nghị định này sửa đổi Khoản 2, Điều 50 của Nghị định 103/2024/NĐ-CP và có hiệu lực từ ngày 06/11/2025.
Theo quy định sửa đổi này, đối với các trường hợp tương tự (có quyết định giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch chi tiết trước ngày 01 tháng 8 năm 2024 nhưng chưa quyết định giá đất để tính tiền sử dụng đất), khoản tiền người sử dụng đất phải nộp bổ sung cho thời gian chưa tính tiền sử dụng đất sẽ được áp dụng mức thu 3,6%/năm. Mức giảm tiền sử dụng đất phải nộp bổ sung từ 5,4% xuống còn 3,6%/năm này được tính trên số tiền sử dụng đất phải nộp theo quy định tại Khoản 2, Điều 257 của Luật Đất đai 2024.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, từ ngày 06/11/2025, việc giảm tiền sử dụng đất phải nộp bổ sung từ 5,4% xuống còn 3,6%/năm là hoàn toàn đúng theo quy định pháp luật hiện hành.

Giảm tiền sử dụng đất phải nộp bổ sung từ 5,4% xuống còn 3,6%/năm từ 06/11/2025 đúng không? (Hình từ Internet)
Quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất của người sử dụng đất
Luật Đất đai 2024 đã quy định rõ ràng về quyền của người sử dụng đất, bao gồm cả quyền cho thuê lại.
Quy định về quyền của người sử dụng đất
Căn cứ Khoản 1, Điều 27 của Luật Đất đai 2024, người sử dụng đất có các quyền sau đây:
- Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất.
- Thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất.
- Thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Những quyền này được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai và các luật khác có liên quan.
Thực hiện quyền cho thuê lại
Như vậy, theo quy định trên, người sử dụng đất hoàn toàn được phép thực hiện quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai.
Trách nhiệm đối với việc sử dụng đất trước Nhà nước
Việc sử dụng đất là một vấn đề quan trọng và có nhiều đối tượng chịu trách nhiệm trước Nhà nước.
Các đối tượng chịu trách nhiệm sử dụng đất
Theo quy định tại Điều 6 của Luật Đất đai 2024, những đối tượng sau đây phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất:
- Người đại diện theo pháp luật của tổ chức: Bao gồm tổ chức trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và người đứng đầu của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, đối với việc sử dụng đất của tổ chức mình.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã: Chịu trách nhiệm đối với việc sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích công ích; đất phi nông nghiệp đã giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã để sử dụng vào mục đích xây dựng trụ sở Ủy ban nhân dân, các công trình công cộng phục vụ hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí, chợ, nghĩa trang và công trình công cộng khác của xã, phường, thị trấn; đất tôn giáo, đất tín ngưỡng chưa giao quản lý, sử dụng.
- Người đại diện cho cộng đồng dân cư: Là trưởng thôn, làng, ấp, bản, bon, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự hoặc người được cộng đồng dân cư thỏa thuận cử ra.
- Người đại diện tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc: Đối với việc sử dụng đất của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
- Cá nhân và người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài: Đối với việc sử dụng đất của chính mình.
- Người có chung quyền sử dụng đất hoặc người đại diện cho nhóm người có chung quyền sử dụng đất: Đối với việc sử dụng đất đó.
Việc xác định rõ trách nhiệm của từng đối tượng giúp đảm bảo việc sử dụng đất tuân thủ pháp luật, phục vụ hiệu quả cho sự phát triển chung của đất nước.


